Người đọc đồng chủ đề chắc chắn sẽ thất bại trong việc nhìn nhận mọi ý kiến. Với bách khoa toàn thư - vốn có nội dung chính đề cập đến nhiều vấn đề của nhân loại thì sắp xếp theo trật tự đó không đơn giản vì thế giới không tuân theo trật tự bảng chữ cái. Chỉ khi chúng ta cùng nhìn nhận một từ theo cùng một cách thì mới có sự giao lưu về tư duy.
Cũng có thể ông ta đã tiến hành một nghiên cứu ở phạm vi rộng về những gì còn lại của các nền văn minh cổ xưa, hoặc nghiên cứu dưới hình thức đối thoại với những người đang sống tại các khu vực xa xôi. Dữ kiện không phải là vật chất giống như từ, những dữ kiện cần phải được giải thích. ĐÁNH SỐ CỦA NHỮNG TRANG KHÁC BÊN LỀ: Để chỉ ra những chỗ khác trong cuốn sách có nhận định tương tự, hay những ý liên quan hoặc đối lập với những ý đã được đánh dấu; tập hợp các ý liên quan đến nhau nhưng nằm rải rác trong cuón sách.
Nếu phần bạn chọn đọc độc lập và phức tạp hơn so với những phần khác, thì tính chỉnh thể và sự phức tạp của nó cần phải được tách riêng để dễ đọc hơn. Trẻ có thể dễ dàng đọc các biển báo trên đường, lời chú thích trên các bức tranh, điền vào các biểu mẫu đơn giản… Giai đoạn đọc sơ cấp thứ tư và cũng là cuối cùng có thể đạt được vào cuối cấp tiểu học, hay trung học cơ sở. Đọc bề mặt là bước đầu tiên cần thiết để hiểu nội dung của cuốn sách.
Do đó họ đã đặt những câu hỏi mà đáng lẽ nên để lại cho các nghiên cứu khoa học sau này. Khái niệm toàn bộ của ông không chỉ là thời gian mà còn về các khía cạnh khác của cuộc sống. Cuốn sách nhanh chóng trở thành một trong những cuốn bán chạy nhất và giữ vị trí đó suốt hơn một năm với số lượng phát hành lớn.
Xác định lập luận của tác giả bằng cách tìm ra chúng hoặc xây dựng lập luận từ các chuỗi câu. Còn tác phẩm giả tưởng thường chia sẻ những trải nghiệm - những điều mà người đọc chỉ có thể có bằng cách đọc tác phẩm. Sau khi tìm ra các thuật ngữ và nhận định, độc giả phải phân tích các lý lẽ đi cùng.
Giả sử nếu ông sử dụng từ reading theo một nghĩa khác ở một phần khác trong cuốn sách - chẳng hạn trong cụm từ reading nature (bản chất của việc đọc) thì độc giả vẫn dễ dàng nhận thấy sự chuyển đổi sắc thái ý nghĩa của từ reading. Nó khởi đầu việc đọc các cuốn sách lớn bằng cách cho phép người đọc đọc chính xác những sách viết về chủ đề anh ta quan tâm và đọc các bài ngắn về những chủ đề này của nhiều tác giả khác nhau. Quy tắc này có hai phần rõ ràng: Thứ nhất, tìm ra các từ quan trọng tạo nên sự khác biệt; thứ hai, xác định chính xác nghĩa của các từ này theo dụng ý của tác giả.
Thay vì đọc nó như đọc một cuốn lịch sử, người đọc phải hiểu là có thể nó đã bị làm thiên lệch đôi chút theo cách mà bạn bè và người quen của nhân vật muốn anh ta được người khác biết đến. Bạn không những phải hiểu tương đối về những câu hỏi liên quan mà cần phải sắp xếp được chúng theo một trật tự lôgic. Nhưng ngay cả khi con người ngày nay không còn lo lắng về nguy cơ một cuốn chiến tranh nguyên tử hay hạt nhân sắp xảy ra, thì vẫn có nhu cầu đọc cuốn sách lý thuyết này hay một cuốn khác tương tự.
Đọc phân tích trước tiên và trên hết là đọc để hiểu. Tính thống nhất của một tác phẩm mô tả chủ yếu nằm ở vấn đề chính mà nó giải quyết. Nhưng không ai làm được điều đó cả, chúng ta phải nhờ sự giúp đỡ của các phóng viên.
Hai là, nó cho phép bạn rút ngắn thư mục của mình để dễ kiểm soát hơn. Thứ nhất, bạn có thể dựa vào gợi ý của tác giả để tìm ra bố cục cuốn sách. Bạn phải nói lần lượt từng vấn đề một.
Một cách nói khác về những gì một nhà khoa học tự nhiên làm là nói rằng ông ta đã quy định việc dùng từ của mình, tức là ông ta thông báo cho bạn những thuật ngữ nào cần cho lập luận của ông ấy và ông sẽ sử dụng chúng như thế nào. Hãy quay lại quy tắc 3 quy tắc yêu cầu chúng ta phải trình bày được những phần chính của cuốn sách theo trình tự và mối liên hệ giữa chúng với nhau. Người phương Tây có phần đúng khi nói rằng Kinh Thánh là cuốn sách có nhiều chứ không chỉ một ý nghĩa.